nước thải y tế

Nước thải y tế, bệnh viện có đặc điểm gì mà khó xử lý?

Đặc điểm nước thải y tế, bệnh viện được trình bày trong nghiên cứu của Abhradeep Majumder, Ashok Kumar Gupta, Partha Sarathi Ghosal và  Mahesh Varma được đăng trên PubMed Central® (PMC).

Một bệnh viện ở Bồ Đào Nha có hơn 30 cơ sở khám bệnh và công suất 1120 giường bệnh đã thải ra 1000 m3 nước thải mỗi ngày. Quá trình lấy mẫu và phân tích tại hai trung tâm chăm sóc sức khỏe ở Ghana ghi nhận lượng nước thải trung bình là 30,8 L/bệnh nhân/ngày và 54,5 L/giường/ngày. Trung bình các bệnh viện ở các nước phát triển như Hoa Kỳ (Mỹ), Đức, Ý, Tây Ban Nha, Đan Mạch, Hà Lan và Bồ Đào Nha thải ra khoảng 411 m3 nước thải hàng ngày, tương đương khoảng 730 L/bệnh nhân/ngày. Trong khi đó, lượng nước thải trung bình được ở các bệnh viện từ các nước đang phát triển hoặc bán phát triển, chẳng hạn như Ấn Độ, Iran, Brazil, Ethiopia, Ghana, Nepal, là khoảng 290 m3/bệnh viện/ngày và 250 L/bệnh nhân/ngày, con số này ít hơn đáng kể so với các nước phát triển.

Đặc điểm chung nước thải y tế

Nước thải y tế, bệnh viện có nhu cầu oxy sinh hóa (BOD) trung bình, nhu cầu oxy hóa học (COD) khá cao, hàm lượng amoniac và nitơ cao hơn so với nước thải sinh hoạt. Ngoài ra chúng còn chứa các chất gây ô nhiễm khác nhau, chẳng hạn như các hợp chất dược dụng (PhAC), vi sinh vật bao gồm vi khuẩn, vi rút. 

BOD là lượng oxy được tiêu thụ bởi vi sinh vật để phân hủy chất hữu cơ trong điều kiện hiếu khí ở một nhiệt độ và khoảng thời gian cụ thể, trong khi COD là lượng oxy tương đương tiêu thụ trong quá trình oxy hóa hóa học chất hữu cơ bởi một chất oxy hóa mạnh. Do đó, BOD có thể được gọi là phần có thể phân hủy sinh học của nước thải, trong khi COD là thước đo của cả các hợp chất hữu cơ có thể phân hủy sinh học và không phân hủy sinh học. Tỷ lệ BOD và COD của nước thải được gọi là chỉ số phân hủy sinh học. Chỉ số phân hủy sinh học của nước thải y tế, bệnh viện cũng thấp hơn nước thải sinh hoạt nên khó xử lý hơn các hệ thống sinh học thông thường. Vi rút, ARB và ARG vẫn tiếp tục tồn tại ngay cả sau khi xử lý CTNH, và việc chúng thải vào hệ sinh thái dưới nước gây ra mối đe dọa đáng kể đối với môi trường.

nước thải y tế

Màu nước chỉ thành phần nước thải y tế, bệnh viện:

Màu nước thải y tế từ các bệnh viện có thể được phân thành hai loại lớn: nước đen, nước xám. 

Nước đen hoặc nước thải chủ yếu bao gồm phân và nước tiểu thoát ra từ nhà vệ sinh trong các khu bệnh viện, chiếm phần lớn trong BOD của nước thải. Nước đen rất giàu các loại vi sinh vật vì phân là nguồn chính của vi sinh vật trong nước thải. Ngoài việc gây bệnh, những vi sinh vật này cũng có thể đã phát triển khả năng kháng vi trùng hoặc kháng sinh. Các chất trong phân và nước tiểu cũng chứa các PhAC không chuyển hóa, đã được sử dụng cho bệnh nhân trong quá trình điều trị.

Nước xám là nước từ quá trình giặt giũ, tắm rửa, giặt giũ và các quá trình khác như tráng phim X-quang, khử trùng, v.v. các phần tử. Nước thải được tạo ra từ các hoạt động liên quan đến công việc trong phòng thí nghiệm, chẳng hạn như nghiên cứu và chẩn đoán, khoa X quang, được phân loại theo mức thải cụ thể. Nước thải này có chứa các chất có độc tính cao, chẳng hạn như chất khử trùng, chất tẩy rửa, axit, kiềm, dư lượng dược phẩm, dung môi, phương tiện cản quang tia X …. Nước thải ra khỏi bệnh viện còn chứa các kim loại nặng độc hại như Cd, Cu, Ni, Hg, Sn,…

Nồng độ BOD nước thải y tế từ 92 mg/L – 1268 mg/L

Nồng độ theo thành phần cụ thể và theo lục địa của các thông số nước thải y tế, bệnh viện khác nhau đã được mô tả trong Hình 1a và b. Nồng độ BOD trung bình nước thải bệnh viện của Châu Âu và Châu Á là khoảng 200 mg/L, thấp hơn nhiều so với BOD nước thải bệnh viện ở Nam Mỹ (Hình 1b). Nồng độ BOD cao 1268 mg/L đo được trong nước thải bệnh viện ở Brazil. Ở Ấn Độ, nồng độ BOD trong một số nước thải bệnh viện dao động từ 92,8 mg/L đến 270 mg/L với nồng độ trung bình là 153 mg/L.

đặc điểm nước thải y tế, bệnh viện

Nồng độ COD cao: 613 mg/L – 2480 mg/L

Nồng độ COD trung bình trong nước thải y tế, bệnh viện của Châu Âu, Nam Mỹ và Châu Á lần lượt là 613 mg/L, 1074 mg/L và 591 mg/L (Hình 1a). Nồng độ COD cao 2480 mg/L, 2464 mg/L và 1142 mg/L đo được trong một số nghiên cứu ở Brazil, Tây Ban Nha và Ấn Độ. Nồng độ COD trung bình trong nước thải y tế ở các bệnh viện Nam Mỹ cao hơn của Châu Âu và Châu Á (Hình 1b). Tỷ lệ BOD/COD trung bình của nước thải y tế trên toàn thế giới là 0,29 ở châu Á và 0,,34 ở châu Á, thấp hơn đáng kể so với nước thải sinh hoạt. Do đó làm cho nước thải bệnh viện khó xử lý. 

Các giá trị của tỷ lệ BOD/COD được mô tả trong Hình 2a. Trung vị của tỷ lệ này trong nước thải bệnh viện các nơi trên thế giới được lần lượt là 0,27, 0,20 và 0,57. Tuy nhiên, giá trị BOD/COD cao 0,75, 0,64 và 0,85 đo được trong một số nước thải bệnh viện của Iran, Thái Lan và Brazil tương ứng. Nồng độ trung bình của TOC được tìm thấy là 223 mg/L, với nồng độ TOC tối đa là 1050 mg/L được báo cáo từ Thái Lan.

đặc điểm nước thải y tế, bệnh viện

Bảng. 2

a) Tỷ lệ BOD / COD của nước thải từ các bệnh viện khác nhau, b) tương quan giữa tỷ lệ phần trăm dân số bị ảnh hưởng bởi COVID-19 và tỷ lệ phần trăm mẫu dương tính với SARS-CoV-2 RNA trong nước của các quốc gia khác nhau

Data source: Tables S1 and S3 of the supplementary section.

Nồng độ amoni và Ni tơ trong nước thải y tế cao

Hàm lượng amoniac, TN, TKN và nitrat trung bình trong nước thải bệnh viện lần lượt là 27,6 mg/L, 50,4 mg/L, 37,5 mg/L và 34,4 mg/L (Hình 1a).  Nồng độ nitrat cao (217 mg/L) được ghi nhận trong nước thải bệnh viện ở Pháp. Nồng độ TSS, nitrat và TN trong nước thải bệnh viện ở Châu Âu cao hơn ở Châu Á và Nam Mỹ (Hình 1b). 

Hàm lượng amoni và nitơ cao của nước thải bệnh viện có thể được giảm xuống nhờ vi sinh Quick Start của Canada. Đây là loại vi sinh đã làm giảm amoni nước thải sinh hoạt từ 64.2 xuống còn 0.5 mg/L.

thực tế giảm amoni nước thải sinh hoạt

Nồng độ TSS cao 

Nồng độ chất rắn lơ lửng ghi nhận là 119,7 mg/L và 209,5 mg/L trong nước thải bệnh viện Châu Á và Châu Âu (Hình 1b), với mức tối đa được báo cáo bởi Suarez và cộng sự là 339 mg/L ở Tây Ban Nha.

pH trung bình là 7.5

Độ pH trung bình của nước thải bệnh viện vào khoảng 7,5. Giá trị pH lớn nhất là 8,7 ở Tây Ban Nha và nhỏ nhất là 6,42 ở Ấn Độ. 

Nước thải bệnh viện còn chứa cả vi khuẩn có hại

Nước thải y tế cũng chứa một loạt các hợp chất dược dụng, vi khuẩn, virus, sản phẩm chăm sóc cá nhân, động vật nguyên sinh.

Có phải bạn đang gặp vấn đề về hệ thống, trao đổi thêm với Flash nhé!

zalo Flash CT

Zalo: 0909.132.156
Email: trongkhiem@flashct.vn

Bài viết mới nhất

Proventus Bioscience

  • Là công ty có nhà máy sản xuất vi sinh tại St.Laurent, Quebec, Canada. Với hơn 25 năm kinh nghiệm, đội ngũ của Proventus Bioscience đã và đang cung cấp các sản phẩm vi sinh hiệu quả cao và an toàn, ứng dụng trong ngành thủy sản, xử lý nước thải và nông nghiệp.
  • Các sản phẩm của Proventus được cải tiến liên tục để nâng cao chất lượng, tính ứng dụng và đáp ứng với sự thay đổi của môi trường sống.