Ở mọi nơi, từ trong nhà máy đến cửa xả đều tồn tại rất nhiều vi sinh có lợi. Tuy nhiên điều kiện môi trường và các thông số vận hành đều có thể là nguyên nhân làm chết các vi sinh này.
Những yếu tố ảnh hưởng đến vi sinh trong bể nước thải:
Nhiệt độ, thành phần của nước ảnh hưởng đến thành phần loài xuất hiện trong bể. Chẳng hạn như trong bể hiếu khí sẽ xuất hiện Bacteroides và bể kỵ khí sẽ có Lactobacillus.
Trong các nhà máy xử lý nước thải đô thị, vi khuẩn gram âm loại proteobacteria chiếm 21-65%. Trong đó Betaproteobacteria là nhóm phong phú nhất. Chúng chịu trách nhiệm chính trong việc loại bỏ các yếu tố hữu cơ và chất dinh dưỡng. Các nhánh khác là Bacteroidetes, Acidobacteria và Chloroflexi. Ngoài ra, khi trong bể có amoniac và oxy, Nitrosomonas cũng tồn tại để khử nito.
Tương tự trong công nghiệp, dựa vào khả năng phân hủy sinh học mà sẽ biết được nhóm vi sinh nào chiếm đa số.
Các nguyên nhân làm chết vi sinh
Khi vi sinh chết đi thì hiệu suất của bể cũng giảm. Chung quy lại chính do sự thay đổi của các yếu tố nhiệt độ, pH, thành phần nước sẽ ảnh hưởng đến vi sinh. Cụ thể như sau:
- Mất cân bằng dinh dưỡng trong bể là nguyên nhân đầu tiên. Thường là dư thừa photpho, nitơ hay cacbon làm lệch tỷ lệ C:N:P. Hệ quả là vi sinh bị sốc tải, pH vượt ra khỏi thang tiêu chuẩn => Hàm lượng BOD, COD tăng cao.
- Phản ứng keo tụ và lắng kém của các bông bùn làm hệ thống hoạt động kém hiệu quả. Các vi khuẩn xấu, luân trùng ở lại trong bùn và cạnh tranh dinh dưỡng với vi sinh tốt.
- Thiếu oxy cũng làm sụt giảm số lượng vi sinh hiếu khí. Cần đảm bảo DO trong nước bằng cách sục khí đều đặn.
- Hàm lượng cao chất hoạt động bề mặt, hoá chất độc hại ức chế sinh trưởng của vi sinh.
- Trên các hệ thống bùn hoạt tính, sự hiện diện của vi khuẩn dạng sợi là một vấn đề thực sự. Vi khuẩn dạng sợi tăng đột biến khi xảy ra phú dưỡng. Chúng sinh trưởng và cạnh tranh oxy & dinh dưỡng trực tiếp với vi sinh tốt.
Cách duy trì sức khoẻ và số lượng vi sinh
Bổ sung men vi sinh gốc để nuôi dưỡng vi sinh sẵn có cũng như tăng tuổi thọ của quần thể vi sinh trong hệ thống.
Duy trì DO ở mức 2-3.5 mg/L để đáp ứng nhu cầu oxy của vi sinh, tránh hình thành môi trường kỵ khí khiến vi khuẩn sợi xuất hiện. Đồng thời cũng hạn chế được mùi hôi do hình thành H2S.