Các nhà chế biến đồ hộp (thịt, nước uống) thường tạo ra nước thải có nồng độ hữu cơ cao & liên tục. Tải lượng ô nhiễm cao tốn nhiều chi phí xử lý để cân bằng cơ chất ở đầu hệ thống.
Tải lượng ô nhiễm chính thường bao gồm nhu cầu oxy sinh học (BOD), nhu cầu oxy hóa học (COD), tổng chất rắn lơ lửng (TSS), chất béo/ dầu/ mỡ (FOGs) và các chất dinh dưỡng ở các nồng độ khác nhau. Đây là lúc xử lý hiếu khí nước thải chế biến cần có biện pháp mới tối ưu hơn.
Đặc điểm của nước thải chế biến đồ hộp
Các nhà máy nước thải tại các cơ sở sản xuất thực phẩm và đồ uống gặp nhiều thách thức. Đầu tiên là sự thay đổi điều kiện và thành phần đầu vào phức tạp dễ gây sốc tải. Ngoài ra sự thay đổi nhiệt độ đột ngột và tăng sản xuất cũng là nguyên nhân.
Trong nhiều trường hợp, các hệ thống xử lý bùn hoạt tính thông thường không có khả năng xử lý các biến đổi lớn đột ngột về BOD, COD và các thành phần dinh dưỡng.
Vì những nhược điểm đó, xử lý nước nước thải cường độ cao như chế biến đồ hộp phần lớn đã chuyển dần sang màng MBR kết hợp men vi sinh. Lò phản ứng MBR gồm màng sinh học với sinh khối lơ lửng, loại bỏ chất rắn bằng màng vi lọc.
Xử lý bằng phương pháp tách màng MBR thực chất vẫn là quy trình bùn hoạt tính. Tại đó, giai đoạn làm sạch cuối cùng được thay thế bằng hệ thống màng lọc. Kể từ năm 1993, việc nghiên cứu và triển khai MBR đã được thực hiện. Quy trình MBR đã chứng minh khả năng thẩm thấu tốt, cải thiện chất lượng nước và giảm thiểu bùn .
Vi sinh hỗ trợ xử lý hiếu khí nước thải chế biến đồ hộpnhư thế nào?
Từ những năm 2000, vi sinh được thêm vào để hỗ trợ quá trình. Việc tách bùn được thực hiện trực tiếp trong bể phản ứng sinh học chứa vi sinh hiếu khí. Tại bể MBR có thêm bộ phận sục khí, tăng cường khả năng xử lý của vi sinh hiếu khí trong lò. Điều này đã thay thế phương pháp lắng trọng lực bằng các bể lắng thứ cấp khổng lồ.
Ví dụ, một nhà máy bia lon đang phải đối phó với sự thay đổi tải trọng cao. Nước thải từ bia rất khó xử lý. Với các hóa chất dễ oxy hóa và các hợp chất sinh học ở nồng độ cao hơn nhiều so với nước thải sinh hoạt thông thường. Hệ thống MBR đã chứng tỏ khả năng thích ứng mạnh mẽ với việc tải các chất hữu cơ gây sốc và đảm bảo của nó là <100 mg/L COD, <25 mg/L BOD5 và <30 mg/L TSS.